Nỗi sợ hãi cơ bản đầu tiên: SỢ NGHÈO KHÓ
Không thể có sự thỏa
hiệp giữa sự nghèo khổ và giàu sang!
Hai con đường dẫn tới sự nghèo khó và giàu
sang luôn ngược chiều nhau. Nếu bạn muốn được giàu có, bạn phải từ chối bất cứ
hoàn cảnh nào có thể làm bạn trở nên nghèo khó. Từ “của cải” ở đây được sử dụng
theo nghĩa rộng nhất, ám thị sự giàu có về cả vật chất lẫn tinh thần.
Xuất phát điểm của con
đường dẫn đến sự giàu sang và khát vọng.
Vậy thì, đây là lúc tự
bạn nhận lấy thử thách để đánh giá xem bạn hấp thu triết lý làm giàu này đến
đâu. Đây là thời điểm bạn có thể trở thành nhà tiên tri và tiên đoán một cách
chính xác rằng tương lai sẽ mang đến cho bạn những gì. Nếu sau khi đọc xong
chương này, bạn vẫn sẵn sàng chấp nhận sự nghèo khó thì bạn đã quyết lòng cam
chịu nghèo khó rồi. Có lẽ đó là số phận của bạn.
Nếu bạn cho rằng mình
nhất định phải giàu có, trước hết hãy xác định hình thức và quy mô sự giàu có
mà bạn mong muốn. Bạn đã biết con đường dẫn tới giàu sang. Bạn đã được trao
cho tấm bản đồ chỉ dẫn chi tiết lộ trình đó. Nếu bạn ngần ngại không xuất phát
hoặc hoặc dừng lại trước khi về đến đích thì hãy tự trách mình. Đó là trách
nhiệm của bạn. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc bạn trốn tránh
trách nhiệm khi không thể hay từ chối quyền được giàu có trong cuộc sống. Tất
cả những gì bạn cần chỉ là một điều, một điều duy nhất bạn có thể kiểm soát
được, đó là trạng thái tinh thần của bạn. Trang thái tinh thần là một cái gì
phụ thuộc hoàn toàn vào bạn. Bạn phải tự tạo ra nó chứ không thể bỏ tiền ra mua
từ người khác.
Nỗi sợ hãi mang tính hủy diệt nhất
Sợ nghèo khó là một
trạng thái tâm lý không hơn không kém, nhưng nó cũng đủ sức hủy hoại các cơ hội
thành công của con người.
Nỗi sợ này làm tê liệt
khả năng suy luận, hủy hoại sức tưởng tượng, giết chết tính tự lực, làm xói mòn
lòng nhiệt tình và làm mất thế chủ động. Ngoài ra, nó còn dẫn tới sự thiếu kiên
định trong mục đích, khuyến khích sự trì hoãn, vô hiệu hóa khả năng tự kiểm
soát, tước đi sức hấp dẫn của một tính cách, hủy hoại khả năng tư duy chính
xác, làm phân tán sự tập trung nỗ lực và biến sức mạnh ý chí thành thứ vô dụng.
Lại nữa, nỗi sợ nghèo khó hủy hoạt tham vọng, che lấp ký ức và “mời gọi” mọi
kiểu thất bại. Tồi tệ hơn, nó giết chết tình yêu thương và gây phương hại đến
những cảm xúc tốt đẹp nhất của bạn, nó làm bạn trằn trọc, khốn đốn và bất hạnh
hàng đêm – bất kể sự thật hiển nhiên rằng bạn đang sống trong một thế giới luôn
có thừa mọi thứ mà bạn mong muốn. Không có gì đứng chắn giữa bạn và khát vọng
của mình ngoại trừ sự thiếu một mục đích rõ ràng.
Vì vậy, không còn nghi
ngờ gì nữa, sợ nghèo đói được xếp đứng đầu danh sách sáu nỗi sợ căn bản có sức
hủy diệt lớn nhất. Nỗi sợ hãi này đứng đầu danh sách vì nó là nỗi sợ hãi khó
chế ngự nhất. Sợ nghèo đói xuất phát từ khuynh hướng vốn được kế thừa của con
người, đó là khuynh hướng “bóc lột” đồng loại về mặt kinh tế. Gần như mọi động
vật cấp thấp đều có động cơ thúc đẩy là bản năng, nhưng khả năng “tư duy” của
chúng bị hạn chế, vì vậy chúng sát hại lẫn nhau. Con người, nhờ trực giác cấp
cao cùng với khả năng tư duy và suy luận, không “ăn thịt” đồng loại của mình
theo nghĩa thông thường. Họ chỉ cảm thấy thỏa mãn hơn khi “nuốt” được nhau trên phương diện tài chính.
Hám lợi là một trong các bản chất của con người. Vì vậy, có hàng ngàn loại luật
lệ được đặt ra để bảo vệ con người trước đồng loại của mình.
Con người luôn muốn có
được một gia tài lớn và sẽ tìm đủ mọi cách để thực hiện điều đó, trong khuôn
khổ pháp luật, nếu có thể hoặc bằng mọi thủ đoạn nếu cần.
Phép tự phân tích bản
thân có thể làm bộc lộ các điểm yếu mà bạn không muốn thừa nhận. Nhưng tự đánh
giá rất cần thiết cho những ai không muốn có một cuộc sống tầm thường và nghèo
đói. Hãy nhớ rằng, khi lcj vấn bản than từng điểm một, thì bạn vừa là bồi thẩm
đoàn, vừa là quan toàn, vừa là công tố viên lại vừa là luật sư bào chữa, vừa là
nguyên đơn lại vừa là bị đơn, và trên tất cả, bạn đang đứng trước một phiên
tòa. Hãy đối diện với sự thật. Hãy hỏi dứt khoát và trả lời rõ ràng. Khi cuộc
“thẩm vấn” kết thúc, bạn sẽ hiểu rõ mình hơn. Nếu bạn cảm thấy mình không thể
làm một quan tòa công minh trong cuộc phán xử này, hãy nhờ một người nào đó
hiểu rõ bạn làm giúp trọng trách đó. Bạn đang đứng trước sự thật. Hãy tìm ra nó
bằng mọi giá mặc dù nhất thời nó có thể làm bạn bối rối và xấu hổ.
Đa số con người, khi
được hỏi rằng họ sợ điều gì nhất, đều dõng dạc trả lời rằng “Tôi chẳng sợ gì
cả”. Một câu trả lời … không chính xác, bởi vì ít ai chịu nhận rằng mình có
những điểm hạn chế, khiếm khuyết hay đang bị giày vò về mặt tinh thần và thể
xác bởi một nỗi sợ hãi nào đó. Cảm giác sợ hãi ẩn nấp một cách tài tình và kín
đáo đến mức con người có thể sống cả một đời mà không nhận ra sự hiện diện của
nó. Chỉ có một cuộc phân tích hết sức dung cảm mới có thể phơi bày bộ mặt thật
của con ma sợ hãi – kẻ thù chung của tất cả chúng ta. Khi tiến hành một cuộc
phân tích như thế, hãy nghiên cứu tỉ mỉ tính cách của bạn. Dưới đây là danh sách
những dấu hiệu mà bạn cần lưu ý.
Các
dấu hiệu của nỗi sợ đói nghèo.
Lãnh
đạm: Thường thể hiện qua sự
thiếu tham vọng; cam chịu nghèo khó; chấp nhận những gì cuộc sống ban cho mà
không một lời phản đối; bạc nhược về cả thể xác lẫn tinh thần; thiếu sáng kiến,
trí tưởng tượng cũng như lòng nhiệt thành và tính tự chủ.
Thiếu
quyết đoán: Thói quen cho phép
người khác suy nghĩ thay cho mình, còn mình thì đứng ngoài và không có quan
điểm rõ ràng.
E
ngại: Thường được thể hiện
qua những chứng cứ ngoài phạm và những lời bào chữa nhằm thanh minh, che đậy,
hoặc xin lỗi vì thất bại của mình. Đôi khi, sẹ e ngại thể hiện qua lòng đố kỵ
với những người thành đạt hoặc chỉ trích họ.
Lo
lắng: Thường được thể hiện
bằng việc bới lông tìm vết ở người khác, khuynh hướng tiêu xài quá tay, thiếu
chăm sóc vẻ bề ngoài của bản thân, hay cáu bẳng và nhăn nhó, luôn căng thẳng,
thiếu cân bằng trong cuộc sống, thiếu ý thức về bản thân và thường xuyên uống
rượu và sử dụng ma túy.
Thận
trọng thái quá: Đó là thói quen luôn
nhìn thấy mặt tiêu cực của một vấn đề, chỉ nghĩ và nói về những khả năng thất
bại có thể xảy rất hay vì tập trung tìm kiếm phương tiện có thể đi đến thành
công. Biết hết mọi con đường dẫn tới thảm họa nhưng không bao giờ tìm ra kế
hoạch phòng tránh thất bại. Luôn trông chờ “thời cơ chin muồi” để bắt đầu nhưng
rồi cuối cùng “thời cơ chin muồi” không bao giờ đến và việc chờ đợi này trở
thành một thói quen cố hữu tự lúc nào. Luôn nhớ tới những người từng thất bại
và luôn quên những tấm gương thành công. Chỉ nhìn thấy lỗ tròn ở giữa chiếc
bánh mà không để ý đến phần bánh xung quanh.
Do
dự: Thói quen để lại ngày
mai những gì có thể làm được từ … năm ngoái. Dành khá nhiều thời gian để bào
chữa cho những việc đã làm sai hơn là bắt tay vào công việc mới. Dấu hiệu này
cũng gần giống tính thận trọng thái quá, e ngại và lo lắng. Từ chối nhận trách
nhiệm. Có ý muốn thỏa hiệp hơn là đấu tranh. Thỏa hiệp với khó khan thay vì
đương đầu với chúng và xem chúng là những bậc thang để tiến lên. Mặc cả từng xu
với cuộc đời thay vì mưu cầu sự an khang, thịnh vượng, giàu có mãn nguyện và
hạnh phúc. Luôn haochj định những việc cần làm phòng khi thất bại thay vì triệt
thoái mọi đường rút lui có thể. Thiếu, thậm chỉ hoàn toàn không có sự tự tin,
sự kiên định, sự tự chủ, óc sáng tạo, lòng nhiệt thành, tham vọng, tính cần
kiệm và khả năng lý luận sắc bén. Chỉ chờ đợi sự nghèo khó mà không ra sức tìm
kiếm của cải. Thường kết giao với những người bạc nhược chấp nhận nghèo khổ
thay vì tìm kiếm những người bạn luôn mưu cầu sự thịnh vượng.
Khi tiền bạc lên tiếng!
Có người hỏi: “Tại sao ông lại viết quyển sách nói về tiền
bạc này? Tại sao sự giàu có chỉ được đo bằng tiền?” Một số người tin rằng
có nhiều hình thức giàu có khác còn đáng được ao ước hơn cả tiền bạc.
Đúng vậy, có những tài
sản không thể đo bằng tiền, tuy nhiên cũng có hàng triệu người phản đối ý kiến
này với lý lẽ: “Có tiền mua tiên cũng
được!”
Lý do chính để tôi
viết quyển sách này là trên thực tế, có hàng triệu người, nam có nữ có đang
chết khiếp vì nỗi sợ nghèo khó. Nỗi sợ hãi này tác động đến con người ta ra sao
đã được nhà báo Westbrook Pegler mô tả khá rõ nét:
“Tiền bạc đôi khi chỉ
là những vỏ sò, những miếng kim loại hay những mảnh giấy. Chúng không thể mua
được những báu vật của trái tim và tâm hồn. Nhưng rất nhiều người, trong lúc
túng bấn, không thể nhớ tới điều này và giữ vững tinh thần của họ. Khi một
người sa cơ phải sống vất vưởng ngoài đường, không thể tìm được một việc để
làm, thì những gì đang diễn ra trong đầu anh ta đều có thể được nhìn thấy qua
vẻ ủ rũ và chán nản từ đôi vai, chiếc mũ, dáng đi đến cái nhìn. Anh ta không
thể thoát khỏi mặc cảm tự ti khi nhìn những người có công ăn việc làm ổn đinh,
ngay cả khi biết rằng họ không hơn anh ta nếu xét về tính cách, khả năng và trí
thông minh.
Mặt khác, những người
này (trong đó thậm chí có cả bạn bè của anh ta) lại có cảm giác kẻ cả và đôi
khi coi anh ta như một tai ương cần tránh xa một cách vô ý thức. Anh ta có thể
vay mượn ai đó một lần, nhưng chẳng thấm vào đâu nếu chi tiêu như thường lệ, và
anh ta cũng không thể hỏi mượn mãi. Tự bản than việc vay mượn, trong trường hợp
một người vay mượn để sống qua ngày, là một kinh nghiệm đau thương; đồng tiền
đó thiếu sức sinh sôi nảy nở để có thể giúp anh ta lấy lại tinh thần. Tất
nhiên, không nguyên tắc nào trong cuốn sách này có thể áp áp dụng cho những kẻ
ăn không ngồi rồi hay những người vô tích sự, mà chỉ áp dụng với những người
chí ít có một ước vọng bình thường và có lòng tự trọng.
Phụ nữ ở cùng hoàn
cảnh lại là những người hoàn toàn khác. Chúng ta thường không nghĩ về phụ nữ
khi đề cập đến những người thất bại. Họ hiếm khi để mình rơi vào cảnh cơ hàn,
hiếm khi chúng ta nhìn thấy họ đi ăn xin và thật khó nhận ra họ qua đám đông
qua những dấu hiệu rõ ràng thường được dung để nhận diện những người những
người đàn ông sa cơ lỡ vận. Dĩ nhiên, tôi không đề cập đến ở đây những “mụ phù
thủy” đang lê bước trên đường phố, tương tự như cánh đàn ông vô công rồi nghề
đã nhắc tới ở trên. Tôi muốn nói đến các phụ nữ trẻ, những người đứng đầu và
thông minh. Chắc chắn có nhiều người trong số họ thất bại nhưng nỗi thất vọng
của họ không lộ ra ngoài.
Khi một người đàn ông
sa cơ thất thế, anh ta mới có thời gian để nghiền ngẫm. Anh ta sẽ đi hàng dặm
để xin việc làm và khám phá ra rằng chỗ ấy đã tuyển được người rồi, hoặc đó chỉ là công việc không có lương
cứng mà chỉ được hưởng khoản hoa hồng còm cõi nhờ bán những món linh tinh mà sở
dĩ có người chịu mua chẳng qua là vì họ động lòng trắc ẩn. Bỏ qua những công
việc đó, anh ta lại thấy mình quay về với đường phố, đi lang thang khắp nơi mà
chẳng biết đi đâu. Anh ta cứ đi, đi mãi. Anh ta nhìn chằm chằm vào những ô kính
của cửa hiệu trưng bày các loại hàng hóa xa xỉ không dành cho anh ta và cảm
thấy tự ti, rồi nép mình nhường chỗ cho những người khác vào ngắm nhìn và say sưa
chọn lựa. Anh tha thẩn vào một nhà ga xe lửa hoặc ghé vào một thư viện công
cộng nào đó nghỉ chân và hưởng nhờ chút hơi ấm lò sưởi, nhưng đó không phải là
đi tìm việc, và anh ta lại tiếp tục đi. Có thể anh ta không biết, nhưng sự lang
thang vô định đó “tố giác” tình trạng thất nghiệp của anh ta dù rằng dáng vẻ
anh ta chưa bộc lộ điều gì cả. CÓ thể anh ta vẫn chải chuốt trong những bộ quần
áo thời còn có việc làm ổn định, nhưng những bộ quần áo không che giấu được vẻ
chán nản của con người.
Anh ta gặp hàng ngàn
người khác nhau, từ những nhân viên kế toán, thư ký, dược sĩ đến cả những người
lao động chân tay, tất cả mọi người đều bận rộn với công việc của mình và từ
tận đáy long anh ta ghen tị với họ. Họ có sự độc lập về mặt tài chính, lòng tự
trọng, nhân cách. Còn anh ta không thể thuyết phục được bản than rằng mình cũng
là người tốt, mặc dù cứ vài giờ anh ta lại tranh luận với chính mình và đưa ra
một “phán quyết” hết sức vừa ý.
Chính tiền bạc đã tạo
ra sự khác biệt ở con người đó. Chỉ cần có một ít tiền thôi, anh ta sẽ lại là
chính mình.